Thực hiện: Joseph Đặng Chiến - Chiendang@gmail.com

Thứ Bảy, 11 tháng 2, 2017

HƯỚNG DẪN ĐỌC AMORIS LAETITIA

Trong Tông huấn trước đây, Evangelii Gaudium, Đức thánh cha Phanxicô đã viết sau hai ngàn năm, Chúa Giêsu, một lần nữa, lại trở nên người xa lạ đối với nhiều xứ sở, ngay cả các xứ Tây phương. Vì thế, “chúng ta cần phải thực tế và đừng nghĩ rằng các thính giả của chúng ta ngày nay hiểu toàn bộ nền hậu cảnh của những gì chúng ta đang nói, hoặc họ có khả năng liên hệ điều ta nói với tâm điểm của Phúc-âm, vốn là điều làm nên ý nghĩa, vẻ đẹp, và sự hấp dẫn của sứ điệp” (EG 34). 

Thế nên, cung cách của Đức thánh cha không phải là “đổi mới”, mà đúng hơn, là một “hoán cải” thực sự về ngôn ngữ. Mục đích rõ ràng, là bảo đảm việc loan báo Tin mừng là điều quan trọng và đến được với hết mọi người. Tin mừng không phải chỉ là chuyện lý thuyết nhưng liên hệ đến đời sống thực tế của người ta. Để nói về gia đình và nói với các gia đình, thách đố đối với chúng ta không phải là thay đổi đạo lý nhưng là hội nhập văn hóa các nguyên tắc chung để sao cho mọi người có thể hiểu và thực hành. Ngôn ngữ của chúng ta phải làm sao để có thể khích lệ và bảo đảm từng bước đi tích cực cho mỗi gia đình thực sự.

Do đó, Đức Giáo hoàng Phanxicô muốn diễn tả bằng một ngôn ngữ giúp cho mọi thính giả thực sự có thể hiểu được. Điều đó hàm nghĩa phải có sự phân định và đối thoại.

Phân định tránh việc giả định tiên thiên các chân lý và lựa chọn của ta. Nó đòi ta phải xem xét lại và chấp nhận một cách ý thức các dạng thức diễn tả chân lý và lựa chọn của mình.

Như các vị tiền nhiệm, Đức Giáo hoàng Phanxicô yêu cầu chúng ta với tư cách mục tử phải biết phân định các hoàn cảnh rất khác nhau trong đó người tín hữu của chúng ta, cũng như mọi người, từng gia đình và cá nhân, đang sống. Luôn cần có sự phân định như thế, không chỉ đối với các trường hợp ngoại thường. Sự phân định là một quá trình thường xuyên mở lòng ra trước Lời Chúa để cuộc sống thực tế cụ thể của mỗi người được sáng tỏ; nó giúp ta trở nên mềm mỏng vâng nghe Chúa Thánh Thần; nó thúc đẩy mỗi người chúng ta hành động với hết cả tâm tình yêu thương trong các hoàn cảnh cụ thể. Bởi thế, sự phân định thúc đẩy chúng ta tăng triển từ tốt đến tốt hơn. Một trong những đặc tính của sự phân định, theo thánh Inhaxiô Loyola, là nhấn mạnh không những phải xét đến sự thật khách quan, nhưng còn phải diễn tả sự thật ấy với một tinh thần tốt lành và xây dựng. Phân định là đối thoại của các mục tử với vị Mục tử Nhân lành để luôn tìm kiếm ơn cứu độ cho con chiên.

Tư tưởng của Đức Giáo hoàng Phanxicô là một tư tưởng đối thoại. Ngài coi trọng lối tư duy mà ngài gọi là “bất toàn” và giữ nó trong tư thế rõ ràng mở ra với đối thoại, nghĩa là không qui ngã, không trừu tượng và không độc thoại. Đối thoại có nghĩa là chúng ta không được coi những gì chính chúng ta nghĩ và cả những gì người khác nghĩ, là tiên thiên đúng. Đức Phanxicô cho chúng ta thấy hai loại người không thể đối thoại bởi lẽ cả hai đều “cô đặc” hay giản lược tất cả vào chính bản thân họ thôi. Một số người thì giản lược con người họ vào những gì họ biết hoặc cảm thấy (ngài gọi đó là những người theo phái “ngộ đạo” – “gnosticism”); những người kia thì giản lược vào những sức mạnh của họ (ngài gọi là những người theo phái “tân Pelagiô” – “neopelagianism”). Đối thoại gắn liền với niềm tin chúng ta cốt yếu là những hữu thể xã hội và cá nhân mỗi người là bất toàn. Điều này về cơ bản là tích cực bởi lẽ nó tránh cho chúng ta không rơi vào tình trạng khép kín trong chính mình mà mở lòng ra với tình yêu nơi xuất phát của chúng ta.

Đối với nền văn hóa đối thoại, tinh thần bao dung (inclusion) mọi người là điều quan yếu. Thế nhưng, nói tất cả chúng ta là chủ thể không có nghĩa là chúng ta chỉ là một tổng số gồm tất cả các cá nhân; đúng hơn, nó có nghĩa là một sự tổng hợp của tất cả mọi người được hiểu như một dân tộc. Đức Giáo hoàng gợi ý chúng ta cứ luôn hiểu Hội Thánh như thế, như là một dân tín trung của Chúa. Quan điểm của Đức Giáo hoàng về xã hội là có tính bao dung. Một sự bao dung như thế gắn liền với nỗ lực chấp nhận những dị biệt, đối thoại với những người có suy nghĩ khác với ta, khuyến khích sự thông dự của những người khác biệt nhau về tài năng.

Đối thoại và phân định đan quyện vào nhau, như Đức thánh cha đã nói với cử tọa trong buổi tiếp kiến với tờ báo Civiltà Cattolica. “Phân định thiêng liêng truy tìm để nhận ra sự hiện diện của Thần Khí Chúa trong thực tại nhân loại và văn hóa của chúng ta; hạt giống của sự hiện diện của Người đã được gieo trong các sự kiện, các thái độ, ước muốn, và trong các cuộc chiến sâu xa trong tâm hồn chúng ta và trong bối cảnh xã hội, văn hóa và tâm linh” (14.06.2013). Điều đó có nghĩa là các mục tử có bổn phận phải phân định các hoàn cảnh thật tốt (cf. Familiaris Consortio 84 và Sacramentum Caritatis 29).

Bởi thế, những quan tâm mục vụ không nên được lý giải như là đối nghịch với lề luật. Trái lại: tình yêu đối với sự thật là điểm gặp gỡ căn bản giữa lề luật và việc chăm sóc mục vụ. Sự thật thì không trừu tượng; sự thật hoà nhập trong hành trình nhân bản và đức tin của mỗi người tín hữu. Chăm sóc mục vụ cũng không chỉ là một sự áp dụng thần học vào thực tế được chăng hay chớ. Chúng ta không có ý áp việc chăm sóc mục vụ vào khuôn giáo thuyết, nhưng giữ gìn dấu ấn đạo lý nguyên tuyền, có tính mục vụ cơ bản.

Ngôn ngữ của lòng thương xót làm sự thật xuất hiện trong cuộc sống. Bận tâm của Đức Giáo hoàng, vì thế, là muốn đặt lại đạo lý vào trong bối cảnh mới ngày nay nhằm phục vụ cho sứ mạng chăm sóc mục vụ của Hội Thánh. Đạo lý cần phải được diễn giải trong khi liên hệ đến tâm điểm của keryma, lời rao giảng Tin mừng tiên khởi của Kitô giáo, và dưới ánh sáng của hoàn cảnh mục vụ trong đó nó sẽ được áp dụng, và luôn luôn nhớ rằng luật tối thượng (suprema lex) phải là cứu độ các linh hồn (salus animarum) như khoản cuối của Bộ Giáo Luật nói “... và ơn cứu độ của các linh hồn, vốn phải là luật tối thượng trong Hội Thánh, phải được luôn giữ trước mắt mỗi người” (Bộ Giáo Luật §1752).

Luy Nguyễn Anh Tuấn (Theo giới thiệu của HĐTT về Tân Phúc-âm-hoá)

Mười điểm chính của Tông huấn Amoris Laetitia - James Martin, Sj.

Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng Giám mục Amoris Laetitia (Niềm vui của Tình yêu) của Đức Thánh Cha Phanxicô vừa được công bố ngày thứ sáu 8 tháng tư 2016. Tông huấn là thành quả của hai Thượng Hội đồng Giám mục về Gia đình: Khoá ngoại thường (tháng Mười 2014) với chủ đề “Các thách đố mục vụ về gia đình trong bối cảnh của công cuộc loan báo Tin Mừng” và Khoá thường lệ (tháng Mười 2015) với chủ đề “Ơn gọi và sứ mạng của gia đình trong Giáo hội và trong thế giới ngày nay”, cùng với những góp ý của Giáo hội tại khắp nơi trên khắp thế giới.

Tông huấn chủ yếu là tài liệu suy tư về đời sống gia đình và khích lệ các gia đình; nhưng cũng là lời nhắc nhở của Đức Thánh Cha rằng Giáo hội cần tránh việc chỉ phán xét con người và áp đặt luật lệ cho họ mà không nhìn đến những phấn đấu của họ.

Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định giáo huấn của Giáo hội về đời sống gia đình và hôn nhân, nhưng đồng thời nhấn mạnh vai trò của lương tâm cá nhân và sự phân định mục vụ. Ngài mời gọi Giáo hội lưu tâm đến hoàn cảnh sống của con người để giúp họ có quyết định đúng. Mục tiêu là giúp đỡ các gia đình - thực tế là giúp cho mọi người - cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa và biết rằng họ được Giáo hội ân cần chào đón. Tất cả những điều này đòi hỏi phải có “phương pháp mục vụ mới” (199), theo kiểu nói của Đức Thánh Cha.

Sau đây là mười điểm chính của Tông huấn Amoris Laetitia (*):

1. Giáo hội cần phải hiểu các gia đình và các cá nhân trong tất cả sự phức tạp của họ. 

Giáo hội cần phải gặp gỡ họ ở nơi họ đang sống. Thế nên các mục tử phải “tránh những xét đoán thiếu lưu tâm đến tính phức tạp của những hoàn cảnh khác nhau” (296). Không được “đóng khung hoặc xếp loại con người một cách quá cứng nhắc mà không dành chỗ cho sự phân định mang tính mục vụ và riêng biệt” (298). Nói cách khác, không có một tiêu chuẩn chung cho tất cả mọi người. Mọi người đều được khuyến khích sống theo Phúc Âm, nhưng cũng cần được đón nhận vào trong một Giáo hội biết trân trọng những phấn đấu của riêng họ và đối xử với họ với lòng thương xót. Cần tránh kiểu suy nghĩ rằng “mọi sự không trắng thì đen” (305). Và Giáo hội không thể dùng luật lệ luân lý như “những tảng đá đè nặng trên cuộc sống con người” (305). Tóm lại, Đức Thánh Cha kêu gọi phải có sự cảm thông, thương xót và đồng hành.

2. Vai trò của lương tâm là tối quan trọng trong những quyết định về luân lý. 

“Lương tâm cá nhân cần phải được hợp nhất với thực hành của Giáo hội trong những hoàn cảnh vốn vượt khỏi sự hiểu biết của chúng ta về hôn nhân một cách khách quan” (303). Nghĩa là, xác tín truyền thống về phán quyết cuối cùng của lương tâm cá nhân trong đời sống luân lý đã bị quên lãng. Giáo hội được “kêu gọi huấn luyện lương tâm, chứ không phải thay thế lương tâm” (37). Phải, Đức Thánh Cha nói, đúng là lương tâm cần phải được huấn luyện nhờ giáo huấn của Giáo hội. Nhưng lương tâm không chỉ có mỗi việc đánh giá điều gì là đúng hay sai đối với giáo huấn của Giáo hội. Lương tâm còn có thể nhận ra điều Thiên Chúa đòi hỏi nhờ “một sự chắc chắn nào đó về luân lý” (303). Vì thế, các mục tử cần giúp đỡ các tín hữu không chỉ tuân theo lề luật, mà còn biết “phân định”, tức là đưa ra quyết định sau khi cầu nguyện (304).

3. Người Công giáo ly dị và tái hôn cần phải được hội nhập vào Giáo hội đầy đủ hơn. 

Bằng cách nào? Bằng cách xem xét các chi tiết cụ thể hoàn cảnh của họ, bằng cách ghi nhận “những tình tiết giảm nhẹ, khuyên bảo họ ở “toà trong” (nghĩa là cuộc nói chuyện riêng giữa linh mục và người ấy hoặc cả hai vợ chồng), và bằng cách tôn trọng điều này: lương tâm của một người có quyền quyết định cuối cùng về mức độ tham gia vào đời sống Giáo hội (305, 300). (Ở đây không nói về việc rước lễ, nhưng đó là một khía cạnh truyền thống của sự “tham dự” vào đời sống Giáo hội). Các đôi vợ chồng ly dị và tái hôn cần cảm thấy mình thuộc về Giáo hội. “Họ không bị vạ tuyệt thông và không nên đối xử với họ như vậy, vì họ vẫn thuộc về Giáo hội” (243).

4. Mọi thành viên trong gia đình cần được khuyến khích sống đời sống Kitô hữu tốt. 

Phần lớn nội dung Amoris Laetitia gồm các suy niệm Phúc Âm và giáo huấn của Giáo hội về tình yêu, gia đình và trẻ em. Nhưng nó cũng bao gồm rất nhiều lời khuyên thiết thực của Đức Thánh Cha, có khi trích từ những bài huấn dụ và bài giảng về gia đình. Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở các đôi vợ chồng rằng một cuộc hôn nhân tốt đẹp là một “tiến trình động” và mỗi bên phải chịu đựng những gì không hoàn hảo. “Tình yêu không buộc phải hoàn hảo để cho chúng ta ca tụng” (122, 113). Với tư cách mục tử, Đức Thánh Cha khuyến khích không chỉ các đôi vợ chồng đã kết hôn, nhưng cả những người đính hôn, những người sắp làm mẹ, cha mẹ nuôi, người goá bụa, cũng như cô dì, chú bác, và các ông bà. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng đừng ai cảm thấy mình không quan trọng hoặc bị loại ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa.

5. Chúng ta không nên nói về những người “sống trong tội” nữa. 

Đức Thánh Cha nói rõ :“Không thể đơn giản nói rằng tất cả những người sống trong ‘hoàn cảnh bất thường’ là sống trong tình trạng mắc tội trọng” (301). Những người sống trong ‘hoàn cảnh bất thường’, hoặc các gia đình không-truyền-thống, chẳng hạn các bà mẹ đơn thân, cần được “cảm thông, an ủi và đón nhận” (49). Khi nói đến những người này, mà thực ra với tất cả mọi người, Giáo hội cần chấm dứt cách áp dụng luật luân lý, như thể chúng là – theo kiểu nói sống động của Đức Thánh Cha – “những tảng đá đè nặng trên cuộc sống con người” (305).

6. Điều áp dụng được ở nơi này có thể không áp dụng được ở nơi khác. 

Đức Thánh Cha không chỉ nói về các cá nhân, nhưng còn về mặt địa lý nữa.“Mỗi quốc gia hoặc khu vực... có thể tìm kiếm các giải pháp phù hợp hơn với nền văn hóa của mình và nhạy cảm với những truyền thống của mình và nhu cầu của địa phương mình” (3). Thậm chí điều có ý nghĩa mục vụ ở nước này có thể không đúng ở nước khác. Vì lý do này và nhiều lý do khác, như Đức Thánh Cha nói ở phần đầu của Tông huấn, không phải mọi vấn đề đều có thể được giải quyết bởi huấn quyền (3).

7. Mặc dù giáo huấn truyền thống về hôn nhân đã rõ, nhưng Giáo hội không nên chất gánh nặng cho con người với những kỳ vọng không thực tế. 

Hôn nhân là giữa một người nam và một người nữ, là bất khả phân ly; và hôn nhân đồng giới không được xem là hôn nhân. Giáo hội tiếp tục đưa ra lời mời gọi xây dựng hôn nhân lành mạnh. Đồng thời, Giáo hội cũng thường áp đặt trên con người một “lý tưởng thần học giả tạo về hôn nhân”, tách khỏi cuộc sống đời thường của con người (36). Có khi những lý tưởng này trở thành “gánh nặng to lớn”(122). Vì thế, các chủng sinh và linh mục cần được đào tạo tốt hơn để thấu hiểu những phức tạp trong đời sống hôn nhân của con người. “Các thừa tác viên có chức thánh thường thiếu sự đào tạo cần thiết để đối phó với các vấn đề phức tạp mà các gia đình đang phải đối mặt” (202).

8. Trẻ em phải được giáo dục về giới tính và tính dục. 

Trong một nền văn hóa thường thương mại hoá và hạ giá những diễn tả tính dục, trẻ em cần phải hiểu biết về giới tính trong “khung cảnh rộng lớn hơn của một nền giáo dục cho tình yêu và trao hiến cho nhau”(280). Đáng buồn thay, thân xác thường được xem đơn giản chỉ như “một đồ vật để sử dụng” (153). Giới tính luôn phải được hiểu là mở ra để đón nhận món quà của sự sống mới.

9. Những người đồng tính cần được tôn trọng. 

Đang khi hôn nhân đồng giới là không được phép, Đức Thánh Cha nói rằng ngài muốn tái khẳng định “trước hết” rằng người đồng tính cần phải được “tôn trọng trong phẩm giá của họ và được đối xử ân cần, và phải cẩn thận tránh ‘mọi dấu hiệu phân biệt đối xử bất công’, nhất là bất kỳ hình thức công kích hoặc bạo lực nào”. Gia đình có người LGBT [đồng tính, lưỡng tính, chuyển giới] cần được Giáo hội và các mục tử “hướng dẫn mục vụ với lòng tôn trọng” để người đồng tính có thể thực hiện trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa trong đời sống của họ (250).

10. Mọi người đều được đón nhận. 

Giáo hội phải giúp đỡ các gia đình bất cứ gia đình ấy thuộc kiểu nào, và mọi người bất cứ ở trong hoàn cảnh sống nào, vì, ngay cả trong những khiếm khuyết của họ, họ vẫn được Thiên Chúa yêu thương và có thể giúp cho người khác cảm nghiệm tình yêu ấy. Tương tự như vậy, các mục tử phải làm sao cho mọi người thấy mình được ân cần tiếp đón ở trong Giáo hội. Amoris Laetitia đề ra nhãn quan về một Giáo hội mục tử và thương xót, khích lệ mọi người cảm nghiệm “niềm vui tình yêu”. Gia đình là một phần thiết yếu tuyệt đối của Giáo hội, bởi vì xét cho cùng, Giáo hội chính là “gia đình của các gia đình” (80).

–––––––––––––––––––––

* Mười điểm chính của Tông huấn Amoris Laetitia do linh mục James Martin, S.J. tóm kết và đăng trên tạp chí mạng America của Dòng Tên tại địa chỉ http://americamagazine.org/issue/top-ten-takeaways-amoris-laetitia - Các con số trong ngoặc là số của Tông huấn. 

- Minh Đức chuyển ngữ

Suy nghĩ về Tông huấn Amoris Laetitia

Các mục tử phải là những người hết lòng tìm kiếm chân lý, giáo lý chính thống về tín lý và luân lý của Hội Thánh, để từ đó hướng dẫn và dạy dỗ Dân Chúa. Nắm vững đạo lý chính thống là điều đáng khen ngợi, nhưng các ngài còn phải lo bảo ban những khuyên bảo mục vụ quan trọng cấp thiết. Không thể đến ban lời chân lý cho dân chúng rồi bỏ đi và lấy thế làm đủ, đúng hơn, các ngài phải đồng hành với những người mà các ngài đã hướng dẫn, dạy dỗ, bằng cách dấn thân giúp đỡ đưa các chân lý ấy hòa vào cuộc sống của họ.

Đức Giáo hoàng Phanxicô muốn các chân lý về hôn nhân, tính dục, và gia đình được công bố cách rõ ràng, nhưng ngài cũng muốn các thừa tác viên của Hội Thánh với lòng từ bi và hay thương xót vươn tay ra cứu giúp những người đang chiến đấu để đưa những chân lý ấy vào cuộc sống của họ.

Về tính khách quan luân lý của hôn nhân, Đức Giáo hoàng nói rõ ràng chắc chắn. Ngài quả quyết trình bày sự hiểu biết của Hội Thánh về hôn nhân đích thật là giữa một người nam và một người nữ, cả hai cùng cam kết dấn thân cho nhau trong sự trung thành mãi mãi, diễn tả tình yêu của họ và sự sẵn sàng đón nhận con cái mà Chúa sẽ ban, và sự kết hợp ấy như là một bí tích của tình yêu của Đức Kitô đối với Hội Thánh (52, 71). Ngài cũng tỏ bày nỗi xót xa trước những đe doạ lý tưởng này trong thời đại hôm nay, trong đó bao gồm: não trạng duy tương đối về luân lý (moral relativism), nền văn hóa phổ biến qui ngã thích tự yêu mình (cultural narcissism), ý thức hệ tự sáng tạo chính mình (self-invention), văn hoá khiêu dâm, văn hoá xã hội “đào thải” (throwaway society), v.v… Ngài rõ ràng kêu gọi người ta quan tâm đến giáo huấn của đức chân phước Giáo hoàng Phaolô VI trong thông điệp Humanae Vitae về sự liên kết thiết yếu giữa hai chiều kích kết hợp và sinh sản của tình yêu hôn phối (80). Hơn nữa, Đức thánh cha còn trích dẫn ý kiến đồng thuận của Thượng Hội đồng các Giám mục về Gia đình vừa qua, cho rằng quan hệ giữa những người đồng giới không thể được coi dù như là gần tương đương với quan hệ mà Hội Thánh gọi là hôn nhân (251). Đặc biệt, ngài cũng mạnh mẽ lên án các ý thức hệ muốn áp đặt ý kiến cho rằng phái tính (hay giới) chỉ là một khái niệm xã hội có thể thay đổi và vận dụng tự do theo chọn lựa của người ta (56). Ngài lập luận những động thái như thế là quên đi mối quan hệ đúng đắn của thụ tạo với Tạo Hoá của mình. Cuối cùng, mọi ngờ vực nào đó về thái độ của Đức Giáo hoàng về sự bất khả phân ly của hôn nhân đều rõ ràng và trực tiếp bị đánh tan. Ngài nói: “Tính bất khả phân ly của hôn nhân – “Điều Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly” (Mt 19,6) – không nên hiểu như một ‘cái ách’ áp đặt lên con người, nhưng như một ‘quà tặng’ được ban cho những ai kết hợp với nhau trong hôn nhân (62).

Trong một phần đặc biệt đánh động của Tông huấn, Đức Giáo hoàng Phanxicô giải thích bài ca đức ái nổi tiếng trong Thư thứ nhất của thánh Phaolô gửi tín hữu Côrintô (90-119). Theo thánh Tông đồ Phaolô, nhà truyền giáo vĩ đại, tình yêu trước hết không phải là một cảm xúc (94) nhưng là một ý chí dấn thân muốn thể hiện một số điều có tính dứt khoát và thách thức: nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, không vênh vang tự đắc, loại bỏ ghen tị, đua tranh, luôn tin tưởng, hi vọng, tha thứ. Với cung giọng của một mục tử hiền phụ, Đức thánh cha Phanxicô dạy các cặp hãy bước vào đời sống hôn nhân bằng một tình yêu, theo nghĩa đậm sâu và đòi hỏi nhất, phải ở trung tâm của mối quan hệ vợ chồng và gia đình. Đây là phần quan trọng cần phải học trong các chương trình chuẩn bị hôn nhân của Hội Thánh. Đức Phanxicô nói nhiều về vẻ đẹp và sự toàn diện của hôn nhân. Nhưng nên lưu ý đừng giảm thiểu, pha loãng đi hoặc thỏa hiệp với lí tưởng nói đến trong bản văn này.

Tuy nhiên, Đức thánh cha cũng thành thật nhìn nhận rằng thực tế rất nhiều người sống thiếu lý tưởng, không hoàn toàn hội nhập tất cả các chiều kích của hôn nhân theo nghĩa của Hội Thánh. Ngài không theo đường lối chỉ biết lên án, nhưng xem Hội Thánh như một bệnh viện dã chiến hiện diện chính là để cứu chữa và chăm sóc người bị thương tích (292).

Theo hướng đó, ngài đề xuất hai hướng chăm sóc mục vụ cơ bản. Thứ nhất, chúng ta có thể nhận thấy, cả trong trường hợp của những mối kết hợp về khách quan là trái qui tắc hoặc bất toàn, một số yếu tố tích cực tham dự trong tình yêu hôn nhân đầy đủ. Bởi thế, một cặp chẳng hạn sống với nhau không hôn phối mà lại biểu lộ sự chung thủy, một tình yêu sâu sắc, và có con cái, v.v… Hội Thánh, chú ý đến những dấu hiệu tích cực này, có thể theo “luật tiệm tiến” dần hướng dẫn những cặp này tiến đến một quan hệ hôn nhân đích thực và trọn vẹn (295). Điều đó không có nghĩa là ta nói: sống chung là được phép và hợp với ý Chúa; nhưng là nói: có lẽ Hội Thánh có thể tìm thấy được một phương cách hấp dẫn hơn để hướng người ta trong hoàn cảnh đó đến sự hoán cải. 

Thứ hai (ở đây chúng ta sẽ đề cập đến phần chắc chắn gây bàn cãi nhất) là hướng sử dụng sự phân biệt cổ điển của Giáo hội giữa phẩm chất khách quan của một hành vi luân lý và trách nhiệm chủ quan của chủ thể luân lý phạm hành vi ấy (302). Đức Giáo hoàng nhận xét rằng nhiều người trong các hôn nhân dân sự sau một lần ly dị thấy mình ở trong một tình cảnh ràng buộc hầu như không thể gỡ. Nếu cuộc hôn nhân thứ hai của họ chứng tỏ có sự trung tín, giàu sức sống và sinh hoa kết trái, làm sao họ có thể rời bỏ nó mà thực sự không tạo thêm lỗi tội và gây thêm sầu buồn? Dĩ nhiên điều này không có ý nói cuộc hôn nhân thứ hai của họ về khách quan là chính đáng, nhưng muốn nói rằng họ có thể được giảm khinh trong sự qui tội vì lý do những áp lực, khó khăn, hoàn cảnh lưỡng nan của họ. Đức Giáo hoàng áp dụng ở đây sự phân biệt đã nói: “Bởi thế người ta không thể nói rằng tất cả những người đang ở trong một hoàn cảnh gọi là ‘trái qui tắc’ là đang sống trong tình trạng tội trọng, mất ơn thánh hoá” (301). Như thế, thừa tác viên của Giáo hội không thể giúp những người ấy, trong nhà xứ mình hay trong toà giải tội, biết phân định mức độ trách nhiệm luân lý của họ được hay sao? Một lần nữa, chúng ta khẳng định không chạy theo não trạng “ba phải” dĩ hoà vi quí, mà cũng không chối bỏ một hôn nhân dân sự sau khi li dị là trái qui tắc khách quan.

Niềm Vui của Tình Yêu (Amoris Laetitia) liệu sẽ giải quyết các vấn đề này cách yên ắng hay không? Nhưng tông huấn này là một lý giải cân bằng khéo léo và gây ấn tượng giữa nhiều ý kiến tham luận thường cũng trái ngược nhau. Với đường lối như thế đó, tông huấn sẽ phục vụ rất tốt giúp cứu vãn nhiều linh hồn đau khổ đến với “bệnh viện dã chiến”.

Luy Nguyễn Anh Tuấn (Theo Giám mục Robert Barron, WORD on FIRE) 

Suy tư về tông huấn Amoris Laetitia: “Niềm Vui của Tình Yêu” và sự lúng túng của các nhà thần học

ROCCO BUTTIGLIONE

Một tranh biếm hoạ trên một tờ báo Pháp đã lâu vẽ khung cảnh nhiều thần học gia mỗi người đứng trên một ngọn đồi nhỏ của mình đang nhìn chăm chú vào đường chân trời tìm kiếm Đức Kitô. Còn các trẻ nhỏ đang khi đó, ở dưới đất thấp, đã gặp được Đức Giêsu, Người đang nắm tay chúng và đang cùng chúng dạo chơi, giữa các thần học gia kia không nhận ra Người. Các nhà thần học nhìn xa trông rộng, đang khi Người đang ở giữa họ.

Trong khi đọc một số phê bình về Tông huấn Niềm Vui Tình Yêu (Amoris Laetitia) và về triều đại Giáo hoàng Phanxicô, tôi chợt liên tưởng đến hình ảnh biếm hoạ trên. Cảm thức đức tin (sensus fidei) của dân Chúa lập tức đón nhận và bước theo giáo huấn của Đức Giáo hoàng. Còn một số nhà thông thái lại gặp khó khăn khi tìm hiểu, phê bình, và so sánh đối chiếu giáo huấn này, cho là ngược chiều với truyền thống của Giáo hội và đặc biệt ngược với giáo huấn của vị Giáo hoàng tiền nhiệm vĩ đại thánh Gioan-Phaolô II. Họ có vẻ khó chịu bởi đã không đọc bản văn Niềm Vui Tình Yêu trong đó xác nhận các giáo thuyết của họ và họ không muốn rời khỏi khung tư tưởng của họ để lắng nghe điều mới mẻ gây bỡ ngỡ của sứ điệp. Tin Mừng luôn mới mẻ mà cũng luôn cổ kính. Chính bởi lý do này mà Tin Mừng không bao giờ cũ.

Chúng ta sẽ cố gắng đọc phần gây tranh luận nhất của Tông huấn Niềm Vui Tình Yêu bằng con mắt của trẻ thơ. Phần gây tranh luận nhất là phần Đức Giáo hoàng nói rằng, trong một số điều kiện nào đó và trong một số hoàn cảnh nào đó, một số người lý dị tái hôn nào đó có thể được rước lễ.

Khi tôi còn nhỏ, tôi học giáo lý để rước lễ lần đầu. Đó là giáo lý của một vị Giáo hoàng hẳn là chống tư tưởng thời hiện đại: đức Piô X. Tôi nhớ ngài đã giải thích rằng để được rước lễ linh hồn ta phải sạch mọi tội trọng. Và ngài cũng giải thích thế nào là một tội trọng. Có ba điều kiện cần để cấu thành một tội trọng. Phải có một hành vi xấu, mâu thuẫn nghiêm trọng với luật luân lý, đó là một chất liệu xấu nghiêm trọng. Các quan hệ tình dục ngoài hôn nhân chắc chắn là nghịch cùng luật luân lý. Điều đó là đúng trước Amoris Laetitia, vẫn đúng trong Amoris Laetitia và, dĩ nhiên cũng đúng sau Amoris Laetitia. Đức Giáo hoang không thay đổi đạo lý của Hội Thánh.

Tuy nhiên thánh Giáo hoàng Piô X cũng nói với chúng ta một chuyện khác. Để là một tội trọng, ngoài chất liệu xấu nghiêm trọng, cần có hai điều kiện khác. Cần có một ý thức đầy đủ về ác tính (sự xấu xa) của hành vi mà ta phạm. Ý thức đầy đủ có nghĩa là chủ thể, với cả lương tri, phải hoàn toàn tin chắc hành vi ấy là ác, xấu xa. Nếu chủ thể xác tín với cả lương tri rằng hành vi ấy không xấu nghiêm trọng, thì hành vi ấy dù vẫn xấu về chất thể nhưng không thể được xem như là một tội trọng. Hơn nữa, chủ thể phải làm hành vi xấu ấy một cách cố tình. Điều này có nghĩa là tội nhân có tự do hành động hay không hành động: người ấy có tự do hành động cách này hay cách khác và không ở trong một tình trạng lệ thuộc hoặc lo sợ buộc người ấy phải làm điều gì đó mà người ấy không muốn làm.

Chúng ta có thể hình dung ra những tình huống trong đó một người nào đó vốn đã lý dị và tái hôn mà người ấy, dù sống trong hoàn cảnh lỗi nghiêm trọng như thế, nhưng lại không hoàn toàn ý thức hoặc không cố tình cố ý như thế, hay không? Một người, chẳng hạn, đã rửa tội nhưng chưa bao giờ được thực sự học biết giáo lý Phúc âm, đã kết ước một hôn phối cách nông cạn thiếu suy nghĩ, để rồi sau đó bị ruồng bỏ. Người ấy sau đó sống chung hay kết hôn với một người mới, người này yêu thương chân thành và đã giúp đỡ người ấy trong những lúc khó khăn, và trở thành một người cha dượng (hay người mẹ kế) tốt lành đối với những đứa con thuộc cuộc hôn nhân trước.

Người ấy có thể đề nghị với người bạn phối ngẫu mới kia hay không, kể từ đó hai người chỉ sống chung với nhau như ‘anh em’, thế nhưng người ấy sẽ làm thế nào nếu người kia không chấp nhận? Đến một lúc nào đó trong cuộc sống đang chịu nỗi khổ đau dằn vặt, người ấy gặp được Chúa qua một kinh nghiệm đức tin lần đầu tiên và được Ngài lôi cuốn thực sự đến với Tin Mừng. Hẳn có thể là, cuộc hôn nhân đầu tiên người ấy nghĩ là thực sự vô hiệu, nhưng người ấy không thể đến được với toà án của Giáo hội hoặc không thể cung cấp chứng cớ cho việc tuyên bố hôn phối bất thành. Chúng ta không muốn đi xa hơn vào phân tích các trường hợp cụ thể đại loại như thế có vô số trong thực tế.

Tông huấn Amoris Laetitia nói gì đối với những trường hợp loại này? Chắc là sẽ tốt hơn nếu ta bắt đầu từ những gì tông huấn không nói tới. Tông huấn không nói những người ly dị tái hôn có thể được yên ổn rước lễ. Đức Giáo hoàng mời gọi những người ly dị tái hôn bước vào (hay theo đuổi) một tiến trình hoán cải. Ngài mời gọi họ tự chất vấn lương tâm và nhờ một vị linh hướng giúp đỡ. Ngài mời gọi họ đến với toà cáo giải và trình bày hoàn cảnh của mình. Ngài mời gọi những hối nhân và cả cha giải tội cùng bắt đầu một tiến trình phân định thiêng liêng. Tông huấn không nói khi nào trong tiến trình này họ có thể lãnh nhận phép giải tội và tiếp cận được bí tích Thánh Thể. Tông huấn không nói vì các hoàn cảnh và tình rạng rất là khác nhau.

Con đường mà Đức Giáo hoàng đề nghị cho những người ly dị tái hôn cũng chính là con đường Giáo hội đề nghị cho mọi tội nhân, đó là: anh/chị hãy đi xưng tội và vị giải tội, sau khi phân tích mọi tình huống, sẽ quyết định có giải tội cho anh/chị và cho phép anh/chị rước lễ hay không.

Vì hối nhân sống trong một hoàn cảnh khách quan tội nặng là chắc chắn (trừ trường hợp giới hạn cuộc hôn nhân vô hiệu). Vì người ấy về mặt chủ quan hoàn toàn chịu trách nhiệm về lỗi của mình cần phải xem xét. Chính vì thế mà cần phải đi xưng tội.

Một số người khẳng định rằng khi nói những điều như thế, Đức Giáo hoàng đã mâu thuẫn với ý kiến của Đức Gioan- Phaolô II trong cuộc chiến chống lại khuynh hướng duy chủ thể trong đạo đức học. Nơi được ngài dốc sức cho cuộc chiến này chính là thông điệp Veritatis splendor. Phái duy chủ thể trong đạo đức học nói rằng sự tốt lành hay xấu xa của những hành động nhân linh phụ thuộc vào ý hướng của người thực hiện chúng. Điều duy nhất trong thế giới tự nó tốt lành, đối với người theo thuyết duy chủ thể trong đạo đức học, là một ý chí thiện nguyện. Vì thế, để xét đoán một hành động chúng ta phải xem những hậu quả ước muốn trong ý hướng người thực hiện. Theo hướng đạo đức học này, toàn thể hành vi có thể xấu hay tốt tùy theo các hoàn cảnh đi theo đó. Trái lại, đức Giáo hoàng Phanxicô, hoàn toàn hoà hợp với vị tiền nhiệm vĩ đại của mình, nói với chúng ta rằng một số hành vi tự chúng là xấu xa (ví dụ như ngoại tình) không tùy thuộc hoàn cảnh đi theo và cũng không tùy thuộc các ý định của người làm. Tuy nhiên, thánh Gioan-Phaolô II đã không bao giờ nghi ngờ rằng các hoàn cảnh có ảnh hưởng trên sự phán định luân lý về kẻ thực hiện hành vi, khiến cho người ấy có tội ít hay nhiều bởi hành động xấu khách quan người ấy đã làm. Không có một hoàn cảnh nào làm cho một hành vi tự nó xấu trở thành tốt được, nhưng hoàn cảnh có thể làm gia tăng hay giảm thiểu mức qui trách nhiệm luân lí cho người thực hiện hành vi. Chính đó là điều mà Đức Giáo hoàng Phanxicô nói với chúng ta trong Amoris Laetitia. Như thế, trong Amoris Laetitia không hề có một nền đạo đức học hoàn cảnh nào cả, nhưng chỉ là đạo đức học quân bình kinh điển theo thánh Tôma, có phân biệt phán đoán trên sự kiện khác với phán đoán trên người thực hiện hành vi nhân linh, trong đó người ta phải xét tới những hoàn cảnh giảm khinh hay gia trọng.

Những người phê bình khác so sánh đối nghịch trực tiếp Familiaris consortio (số 84) với Amoris Laetitia (số 305, với chú thích 351 nổi tiếng). Thánh Gioan-Phaolô II nói rằng những người ly dị tái hôn không thể rước lễ còn đức Giáo hoàng Phanxicô nói rằng trong một số trường hợp họ có thể. Đây không phải là mâu thuẫn hay sao ?!

Nhưng chúng ta thử đọc bản văn kỹ hơn xem. Khi xưa, những người ly dị tái hôn bị vạ tuyệt thông công và bị loại trừ khỏi đời sống của Hội thánh. Với Bộ Giáo luật mới (Codex iuris canonici) và với tông huấn Familiaris Consortio, vạ tuyệt thông được cất đi và họ được khuyến khích tham gia vào đời sống của Hội thánh và lo giáo dục đức tin cho con cái. Đó là một quyết định can đảm lạ thường làm gián đoạn một truyền thống đã có hàng thế kỷ. Nhưng Familiaris Consortio nói những người ly dị tái hôn không được lãnh nhận các bí tích. Lý do là vì họ đang sống trong một tình cảnh tội lỗi công khai và họ phải tránh gây gương xấu gương mù. Những lý do này mạnh mẽ đến nỗi xem ra việc kiểm tra các hoàn cảnh có thể giảm khinh là điều vô ích.

Bây giờ, Đức Giáo hoàng Phanxicô nói với chúng ta rằng chúng ta cần ra sức xác minh lại các trường hợp này. Khác biệt giữa Familiaris Consortio và Amoris Laetitia nằm hoàn toàn ở chỗ này. Chắc chắn là người ly dị tái hôn về mặt khách quan đang ở trong một hoàn cảnh tội trọng; Đức Giáo hoàng Phanxicô không cho phép họ trở lại được hiệp lễ nhưng, như là mọi người tội lỗi, đón nhận họ trở lại với toà giải tội. Nơi đó họ sẽ tường trình các tình huống có thể làm giảm khinh và được nghe bảo, rằng họ có thể được hay không, và với những điều kiện nào, nhận được ơn tha tội.

Thánh Gioan-Phaolô II và Đức Giáo hoàng Phanxicô chắc chắn không nói cùng một chuyện, nhưng các ngài không mâu thuẫn nhau về thần học hôn nhân. Trái lại các ngài sử dụng cách khác nhau và trong các hoàn cảnh khác nhau, năng quyền tháo cởi mà Chúa đã ủy thác cho người kế nhiệm thánh Phêrô. Để hiễu rõ hơn, chúng ta thử đặt câu hỏi sau đây: có mâu thuẫn giữa các giáo hoàng đã ra vạ tuyệt thông những người ly dị tái hôn và thánh Gioan-Phaolô II đấng tháo cởi vạ tuyệt thông này, hay không?

Các đức giáo hoàng trước đây luôn luôn biết rằng những người ly dị tái hôn có thể vẫn ở trong ân sủng của Thiên Chúa vì có những hoàn cảnh giảm khinh khác nhau. Các ngài biết chỉ duy có Thiên Chúa mới là vị thẩm phán tối hậu. Nhưng các ngài cũng nhấn mạnh đến sự ra vạ tuyệt thông nhằm để củng cố lương tâm dân Chúa về chân lí bất khả phân ly của hôn nhân. Khi ấy vấn đề quan trọng là một chiến lược mục vụ pháp lý trong một xã hội đồng nhất (về tôn giáo) như xã hội của các thế kỷ đã qua. Ly dị là một sự kiện ngoại lệ, những người ly dị tái hôn càng ít có, và bằng cách loại trừ trong đau đớn không cho tham dự Thánh Thể những người lẽ ra trong thực tế đã có thể được phép nhận lãnh bí tích, các ngài muốn bảo vệ đức tin cho dân chúng.

Ngày nay, ly dị là một hiện tượng rộng khắp, và có nguy cơ đi kèm theo là một sự bỏ đạo hàng loạt, thực tế là, những người ly dị tái hôn rời bỏ Giáo hội và không còn giáo dục con cái theo đức tin nữa. Xã hội không còn đồng chất như xưa kia, nó đã trở nên lỏng lẻo. Số những người ly dị rất cao, và hiển nhiên, và cũng gia tăng con số nhiều người rơi vào hoàn cảnh “trái qui tắc” nhưng có thể còn sống, chủ quan mà nói, trong tình trạng ân sủng Chúa. Cần phải phát triển một chiến lược mục vụ mới. Đó là lý do tại sao các giáo hoàng đã thay đổi không phải luật Chúa mà luật con người nhất thiết đi kèm theo luật Chúa, vì Giáo hội còn là một tổ chức nhân linh và hữu hình.

Louis Tuấn chuyển ngữ

ND: Rocco Buttiglione là giáo sư triết học và lịch sử các tổ chức thiết chế châu Âu tại Đại học Giáo hoàng Latêranô.

(Osservatore Romano 21/07/2016, tr. 8)

Từ suy tư về Karol Woytyła đến tông huấn «Amoris laetitia»

MỘT SỰ TRUNG THÀNH SÁNG TẠO - RODRIGO GUERRA LÓPEZ*

Một cuộc tranh luận quan trọng nổ ra ngày 16 và 17 tháng 12 năm 1970 tại Kraków, nước Ba Lan. Tổng Giám mục Karol Woytyła đã viết một quyển sách dày với một nỗ lực nhằm cho thấy nhân học làm nền tảng cho hiến chế mục vụ Gaudium et spes của Công đồng Vatican II. Quyển sách có tựa đề Nhân vị và hành vi (Personne et acte) (1969) và để thảo luận về công trình suy tư lớn lao này một nhóm các triết gia thế giá được mời ngồi lại.

Thật thú vị khi khảo sát các đóng góp khác nhau của lần gặp gỡ này, được Andrezej Szostek cho công bố sau đó ít lâu. Một đàng, có những ý kiến đồng thuận quan trọng về quyển sách mới này. Những người nghiên cứu về hiện tượng luận và thuyết nhân vị thấy nơi Karol Woytyła, quả thực là sự khởi đầu của một hướng đi mới, đó là, việc nhìn nhận cách khách quan chủ thể tính (subjectivité) không hề là duy chủ thể (subjectivisme). Ngược lại, hành vi nhân linh là một yếu tố ưu tiên để học biết sự thật về nhân vị hay con người. Trực giác này cho phép vị tổng giám mục Ba lan phát triển một giả thuyết về cách thức khắc phục tính chất một chiều của thuyết macxít về vai trò tối cao của thực hành cách mạng, bằng một nhân học mới về hành vi và hiệp thông.

Nhưng đàng khác, có những người đã nhìn với một sự dè dặt hoặc bày tỏ sự hoài nghi minh nhiên về tư tưởng của Karol Woytyła. Một số trong những người này từng là các giáo sư theo khuynh hướng tômist vốn không quen trở về với chính sự vật, mà đúng hơn chỉ quen lặp lại một số quy tắc triết học chính thống. Thay vì xác định chân lý như là sự tương thích của trí khôn với thực tại, xem ra họ ngầm hiểu chân lý như là sự tương thích của trí khôn với thánh Tôma. Xem ra họ không thoả mãn tất cả những gì của Karol Woytyła đề xuất, như về phương pháp, ngôn ngữ, luận đề.

Tôi muốn nhắc lại giai đoạn đó để cho thấy không lạ gì khi thấy những phản kháng bắt đầu từ lúc tư tưởng phát triển thêm một bước tiến đi tới. Nói chung, những phản kháng này viện đến lý do vì thiếu trung thành với gia sản đã lãnh nhận, vì sử dụng một ngôn ngữ mới bị coi là mơ hồ và vì vô số các nguy cơ có thể xảy ra nếu chấp nhận những sáng kiến này khác khởi đi từ một quan điểm mới chọn lựa.

Có lẽ chưa vội nhắc tới trường hợp của tác phẩm Nhân vị và hành vi của Karol Woytyła, ta hãy kể ra những ví dụ khác. Trước hết là cuộc tranh luận về khái niệm tự do tôn giáo, người ta đã từng nêu lên vấn đề có vẻ như có sự đối nghịch nhau giữa thông điệp Libertas của đức Giáo hoàng Lêô XIII và tuyên ngôn Dignitatis humanae của Công đồng Vatican II, đã khiến một số người phán xét Công đồng là lạc giáo. Hoặc như việc đưa ý nghĩa kết hợp (unitive) và truyền sinh (procreative) của hành vi tính dục vào trong thông điệp Humanae vitae thay cho lý thuyết của khuynh hướng tômist về mục đích đệ nhất và hai mục đích thứ yếu. Hoặc một điều mới mẻ nữa là việc nhìn nhận con người được tạo dựng theo hình ảnh và hoạ ảnh của Thiên Chúa khởi đi từ tính «đơn nhất lưỡng cực trong quan hệ» giữa người nam và người nữ của thánh Gioan-Phaolô II, người đã bổ túc và mở rộng nội hàm của hình ảnh và hoạ ảnh truyền thống dựa trên cơ sở các tài năng thượng đẳng của con người như trí khôn, ý chí tự do, v.v…

Các ví dụ có lẽ còn rất nhiều như trong giáo thuyết Kitô giáo. Thực tại tự nhiên và kho tàng đức tin thực tế chắc chắn có một cấu trúc xác định và khách quan. Tuy nhiên, sự hiểu biết (hay nội hàm) của chúng được phát triển có hệ thống theo thời gian, qua khảo sát những tiềm lực mới và cần phải được nhìn nhận trong một số thời kỳ đặc biệt. Vì thế, việc chăm chú đọc các dấu chỉ của thời đại không xa lạ gì với nỗ lực suy tư cần thực hiện khi chúng ta suy tư triết học, thần học hay mục vụ.

Tôi có cảm tưởng điều đó cũng xảy ra khi đức Giáo hoàng Phanxicô công bố tông huấn Amoris laetitia. Đức Giáo hoàng Phanxicô không thay đổi đạo lý cốt yếu của Hội thánh. Ngài không làm như thế bởi vì ngài biết rõ rằng kho tàng đức tin không phải là một phát minh tùy tiện có thể thay đổi bởi những khám phá ít nhiều may mắn.

Kho tàng đức tin là ơn huệ phải gìn giữ. Thế nhưng gìn giữ kho tàng ấy không có nghĩa đặt nó vào trong tủ lạnh để cho ngủ đông và như thế mọi hoạt động trao đổi chất của nó bị ngưng lại. Trái lại, đó là một vận động của Thiên Chúa hằng sống bước vào và dấn thân vào cuộc sống của chúng ta để cứu chuộc, Ngài phải tự mạc khải hằng ngày xuyên qua những hoạt động mục vụ của Hội thánh, đặc biệt qua thừa tác vụ của đấng kế nhiệm thánh Phêrô. Đức Giáo hoàng sẽ phản bội ơn gọi và sứ vụ của mình nếu như ngài làm biến tan sự hiện diện thực của Thiên Chúa trong lịch sử ở những nơi Ngài có mặt: trong Thánh Kinh, trong các bí tích, và trong dân chúng, đặc biệt những người bị loại trừ và chịu đau khổ.

Chính vì lí do này, chúng tôi cho là, một số phê phán Đức Thánh Cha nhận được gần đây có vẻ thiếu căn cứ và không đúng. Amoris laetitia thật sự là một hành động của huấn quyền Giáo hoàng. Sẽ là hết sức thiếu khôn ngoan và không chính xác về mặt thần học nếu cho rằng tông huấn này chỉ là một thứ ý kiến cá nhân, hầu như riêng tư. Đức Thánh Cha thực thi nhiệm vụ giáo huấn (munus docendi) của ngài bằng nhiều cách: chúng ta hãy nghĩ tới những sứ điệp, diễn từ, bài giảng lễ của ngài, và chắc chắn cả những thông điệp và tông huấn hậu thượng hội đồng giám mục của ngài nữa. Vả lại, các phương thế sau cùng này được thực hiện chính xác qua các công nghị lớn như thượng hội đồng các giám mục, và như thế không thể xem nhẹ được.

Hơn nữa, Amoris laetitia không hề đứt đoạn hay bất liên tục với Tin Mừng, với những đòi hỏi của luật tự nhiên hay với giáo huấn của huấn quyền tiền nhiệm. Cách riêng, chương tám của tông huấn là một trường hợp tốt minh hoạ những gì đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã dạy cách chung trong diễn từ của ngài tại giáo triều Rôma ngày 22 / 12 / 2005. Mutatis mutandis (những cải tổ cần thiết đã được làm), ta tự cho phép mình nói rằng đạo lý về bản chất của bí tích hôn nhân, bí tích Thánh Thể và những điều kiện cấu thành một tội nguy tử thực sự, không có thay đổi trong giáo huấn hiện nay của đức giáo hoàng. Thế nhưng đạo lý đúng đắn và bất biến này, điều mà chúng ta phải tuân phục, cần phải được đào sâu và giới thiệu trên cơ sở của những đòi hỏi của thời đại thay đổi trong đó chúng ta đang sống. Đó là trường hợp của Amoris laetitia: một sự phát triển hữu cơ trong tinh thần trung thành sáng tạo.

Một lối thông diễn (herméneutique) nào đó xem đây như một sự đứt đoạn với truyền thống của một số người có ý phê bình đức giáo hoàng Phanxicô, theo thiển ý của chúng tôi, là sai lầm, như trình bày sau đây.

Ta nhận thấy trước hết có một lối diễn giải thánh Tôma Aquinô thiếu sót. Vị tiến sĩ thiên thần thật ra đã hiểu thấu và tha thiết quí mến con người cá vị. Trong tất cả những phạm trù phổ quát ngài dùng, bao gồm cả những phạm trù luân lý, đều giảm thiểu sự tập chú vào tính tất yếu quyết liệt và quan tâm hơn đến phận người mỏng giòn khi đem áp dụng vào những hoàn cảnh thực tế ngày càng cụ thể.

Về điểm này có nhiều học giả tômist đã hiểu cách thiếu sót khác nhau. Tôi tự giới hạn chỉ xin nói về một ý kiến thôi. Đó là khuynh hướng ít nhiều phổ biến diễn giải lý trí như một tài năng liên hệ tới cái phổ quát, mà bỏ qua những đóng góp quan trọng của thánh Tôma về việc nhìn nhận một lý trí đặc thù (ratio particularis) và vai trò của nó trong nhận thức lý thuyết và thực hành. Lộ trình của nhận thức bắt đầu từ cá nhân, đi qua cái phổ quát, nhưng rồi lại quay lại với cái cụ thể. Việc xem thường, về mặt phương pháp, toàn bộ tiến trình cấu thành căn bản này đã tạo ra nơi phần lớn các học giả tômist đương đại một lối suy tư phi-lịch-sử (a-historicité) và từ đó gặp khó khăn trong việc thấu hiểu những mối bận tâm của Giáo hội cùng nhiều chú giải, chỉ dẫn và lượng giá mà đức Giáo hoàng Phanxicô đã đề xướng trong tông huấn của ngài.

Có thể nghĩ đến, chẳng hạn như, cách thức mà một số người đã đồng nhất một cách khá đơn giản những hoàn cảnh «trái luật», vốn phức tạp và đa dạng mà các đôi hôn phối trải nghiệm rốt cuộc trong thực tế, với tội nguy tử (tội trọng), và như thế là đồng thời khép cánh cửa lại không cho họ đi vào hiệp thông Thánh Thể. Khẳng định mặc nhiên hay minh nhiên mọi hoàn cảnh «trái luật», bởi định nghĩa, đều là tội nguy tử và những người sống trong hoàn cảnh đó đều không có ơn thánh sủng, đối với chúng tôi xem ra là một sai lầm nghiệm trọng, không phù hợp với Tin Mừng, với luật tự nhiên và với giáo huấn đích thực của thánh Tôma Aquinô.

Đức Giáo hoàng Phanxicô đã công bố một tông huấn không giải quyết mà cũng không hủy bỏ cấu trúc đời sống đạo đức của con người theo hướng nhấn mạnh một chiều đến một nền luân lý tuyệt đối nào đó, cũng không làm giảm nhẹ đi chiều kích phổ quát của lề luật bằng cách chỉ xét thuần trong sự kiện, cái cụ thể, hay bối cảnh. Từ quan điểm này, đức Giáo hoàng đã viết một tông huấn có tính tômist sâu sắc tìm lại được cách lành mạnh sự tham dự và loại suy, và tìm được một lối đi hầu trả lời, vượt trên các thứ lý thuyết, cho mạng lưới nhân sinh dệt bởi những con người thực trong hoàn cảnh cụ thể của họ.

Kế đến có một lối diễn giải thiếu sót về Đức Gioan-Phaolô II. Đức Giáo hoàng Wojtyła trước hết, như là một triết gia và kế đến như một vị giáo hoàng, đã mở ra được một cánh cửa quan trọng trong quá trình đặt lại nền tảng cho nhân học và đạo đức học. Chỉ xem xét con người thuần túy theo hướng duy khách thể là không đủ để đánh giá đúng mực cái không thể giản lược được nơi một nhân vị. Cần phải nhìn chăm chú vào kinh nghiệm nhân văn cơ bản để tìm thấy ngay giữa lòng của nó cái thế giới mênh mông và phong phú của chủ thể và lương tâm con người.

Ở bên trong thế giới này, đối với đức Gioan-Phaolô II, luật tự nhiên không xuất hiện như là một diễn dịch bắt đầu từ một số khuynh hướng nào đó, nhưng chính nền tảng lề luật của nó hiện diện trong lý trí thực tiễn vốn được hiểu như là khả năng nhận ra dần dần chân lí về sự thiện. Chính trên mảnh đất sau cùng này mà ta thực hiện sự tiệm tiến mục vụ, nghĩa là kiên nhẫn lắng nghe và hiểu biết một con người vốn đã không hiểu đầy đủ một giá trị luân lý được ban cho và/hay những đòi hỏi thực hành của nó.

Sự tiệm tiến mục vụ vừa mới đề cập trong Familiaris consortio có được một tầm quan trọng lớn hơn khi ta đọc thấy nội dung của toàn bộ tông huấn Amoris laetitia. Chắc chắn, để diễn giải đúng sự tiệm tiến này, người ta cần không những không được lẫn lộn nó với một hình thức tiệm tiến về đạo lý, nhưng còn phải hiểu rõ rằng cần thiết phải có sự phân định trong mọi trường hợp cụ thể. Lặp lại cách thuần tuý hình thức giáo huấn của đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II mà thôi mà không kèm theo việc đồng hành, phân định và sự hội nhập về sau, sẽ phản bội tính chất mục vụ của toàn thể hành động giáo huấn của Huấn quyền.

Sau cùng còn có một sự diễn giải thiếu sót Đức Bênêđictô XVI. Chúng ta có thể dành nhiều quan tâm cho đề tài này. Tôi nhận định cách đơn giản rằng sẽ không đúng sự thật nếu diễn giải Đức Giáo hoàng Ratzinger như một thứ bảo đảm Giáo quyền biện chính cho khuynh hướng giải thích nghiêm ngặt. Một số người muốn trình bày khuôn mặt của vị nguyên Giám mục Rôma như một người bảo vệ hăng say các giá trị bất biến, để chống lại đức Giáo hoàng đương kim. Không phải như thế đâu. Thực tế phức tạp hơn nhiều. Đức Giáo hoàng Phanxicô vẫn tiếp nối liên tục giáo huấn của đức Bênêđictô. Một trong những ví dụ đánh động nhất mà tôi đã gặp chứng tỏ điều đó là một đoạn trong đó Joseph Ratzinger rõ ràng nhìn nhận rằng ngay giữa mối gắn kết dù bất toàn của ta với Chúa Giêsu Kitô cũng vẫn có thể khám phá được và vun trồng một linh đạo Kitô giáo.

«Một người vẫn còn là Kitô hữu – Đức Giáo hoàng Ratzinger đã viết trong Foi et avenir (1971) – khi người ấy cố gắng chủ yếu gắn kết với Chúa, khi người ấy tìm cách tuyên xưng đức tin qua lời xin vâng cơ bản trong tín thác, ngay cả khi người ấy không biết phải xác định thế nào cho rõ hay phải giải quyết bao nhiêu chuyện riêng. Sẽ có những thời điểm trong cuộc sống khi chúng ta rơi vào đêm đen muôn trùng của đức tin, chúng ta sẽ chỉ phải tập trung thực sự vào tiếng xin vâng đơn sơ: con tin tưởng nơi Ngài, lạy Chúa Giêsu Nadarét, con tin chắc rằng nơi Chúa mới tỏ lộ ý nghĩa thần linh nhờ đó con có thể sống cuộc sống của con trong yên ổn và thanh bình, trong nhẫn nại và can đảm. Nếu trung tâm điểm này có mặt, con người vẫn ở trong đức tin, cho dẫu người ấy có nhiều phát ngôn cụ thể có vẻ còn tối tăm và lúc này vẫn chưa thực hành đạo. Bởi lẽ đức tin trong cái cốt lõi của nó, chúng tôi nói một lần nữa, không phải là một hệ thống tri thức, nhưng là lòng tin tưởng. Niềm tin Kitô giáo là “gặp thấy một Ai đó trong tương giao”, Người nâng đỡ tôi và, bất chấp sự bất toàn cũng như khiếm khuyết bản chất của mọi cuộc gặp gỡ của con người, hứa một tình yêu bất khả huỷ diệt không chỉ khát khao vĩnh cửu, nhưng còn trao ban đời vĩnh cửu”».

Đó là lý do, theo thiển ý của chúng tôi, tại sao không hề có sự đứt đoạn trong Huấn quyền giữa các vị Giáo hoàng gần đây. Điều chúng ta có trước mắt là một sự trung thành sáng tạo, nó cho phép, nói một cách thực tế, ta có một cái nhìn hết sức quan trọng, là xem thời gian lớn hơn không gian, như Đức Thánh Cha yêu quí đã dạy. Như thế, đây không gì khác hơn là chúng ta có thể sống nhẫn nại với những anh chị em bị giập nát và thương tổn, không gì khác hơn là có thể đồng hành trợ giúp lẫn nhau mà không gây cớ vấp phạm bởi phận nghèo hèn của mình và đồng thời, khám phá ra rằng trong Hội thánh, vốn là sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu Kitô trong lịch sử, có một lối đường toả đầy sự dịu dàng trìu mến để chúng ta tái thiết cuộc sống, để chữa lành mọi vết thương tích của chúng ta, cả những vết thương sâu nặng nhất.

Luy Tuấn chuyển ngữ từ L’Osservatore Romano 1/9/2016, no 35.

* Rodrigo Guerra López là giáo sư và là nhà nghiên cứu tại Trung tâm Điều tra xã hội Avanzada CISAV (Querétaro, Mêhicô).